Các
nước Hồi giáo cấm uống rượu nên khi nhập cảnh vào các nước này thì luôn được
hỏi có mang theo rượu không. Thậm chí khi đi máy bay (của các nước Hồi giáo),
bay ngang qua vùng trời của các quốc gia này thì tiếp viên ngừng phục vụ rượu
cho hành khách (cho dù có được yêu cầu).
Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018
Hồi giáo vs. Rượu
Hồi giáo vs. Khủng bố
Đây là điều mà người Hồi giáo muốn nói với thế
giới nhưng ít có người nghe được họ nói. Họ nói: Hồi giáo là tôn giáo của hòa
bình, họ không cổ động chiến tranh hay khủng bố.
Những cái mà thế giới thấy thực ra đó không phải
là người Hồi giáo, họ là những kẻ giả mạo đạo Hồi, tạo ra khủng bố và chết
chóc, nhằm đem lại tai tiếng cho thế giới Hồi giáo. Kể cả nhà nước IS cực đoan
cũng không phải là những người Hồi giáo thật sự.
Và kẻ nào đứng sau lưng những tên giả mạo này
nhằm đem lại tai tiếng cho thế giới Hồi giáo và nhằm bẻ gãy sức mạnh đoàn kết
của họ?
Đó là Mỹ (theo lời họ nói). Đó là lý do người
mang quốc tịch Mỹ thường bị hạn chế đến các quốc gia Hồi giáo là vậy đó.
Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018
Hiểu sai dẫn đến thành kiến
Tiếng Việt bên dưới
The
Qur’an was translated from the Arabic into Latin and Greek already in the
Middle Ages, and later into many other European languages. The Qur’an- without
guidance from historians, Muslim scholars or exegetical works- was thus read by
many European intellectuals, whose attitude typically ranged from the mixed to
very negative, informing prejudices to this day.( Rachel Dryden)
Khi
kinh Koran được dịch ra nhiều thứ tiếng Châu Âu và lan truyền khắp nơi. Các trí
thức Châu Âu đọc kinh Koran mà không có sự giảng giải của các nhà sử học, các
nhà nghiên cứu Hồi giáo hoặc các luận giải, cho nên biểu lộ sự bất mãn tiêu
cực, và chính điều đó tạo ra thành kiến về Hồi giáo mà những thành kiến ấy có tác
động đến tận ngày hôm nay.
Lời
bình: Những thành kiến ngày hôm nay mà chúng ta có khi nói về đạo Hồi xuất phát
từ sự thiếu hiểu biết của các trí thức Châu Âu khi đọc kinh Koran. Chính vì vậy
mà vào thời đại này các học giả Châu Âu đã bắt đầu nghiên cứu lại kinh Koran và
các sử liệu về Hồi giáo một cách khoa học và khách quan, nhằm đem lại sự hiểu
biết đúng đắn cho cộng đồng Châu Âu nói riêng và thế giới nói chung về đạo Hồi.
Hiểu biết đúng đắn mới dẫn đến cảm thông và giảm xung đột trong một thế giới
đầy bất ổn như ngày nay.
Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018
Nét đẹp của Kinh Koran.
Các học giả nghiên cứu
về kinh Koran rất ngạc nhiên trước cái cân đối và hài hòa trong từng khổ thơ.
Thật ra Thánh Kinh Koran chính là một bài thơ rất dài với các nêm luật rất
chỉnh. Cho nên kinh Koran được chiêm ngưỡng như một tác phẩm nghệ thuật của
nhân loại là vậy đó.
Đây là một ví dụ về sự
cân đối trong kinh Koran:
a) is the Living One, the Sustainer (l-ḥayyu l-qayyūm).
b) Neither drowsiness befalls Him nor sleep (naum).
c) To Him belongs what is in the heavens
and on the earth (fi s-samāwāti wa-mā fi l-ʾarḍ).
d) Who is it that may intercede with Him
except with His permission?
e) He knows that which is before them
and that which is behind them,
d’) and they do not comprehend anything of His knowledge except what He wishes.
c’) His throne embraces the heavens
and the earth (as-samāwāti wa-l-ʾarḍ).
b’) and He is not wearied by their preservation,
a’) and He is the Exalted,
the Supreme (wa-huwa l-ʿaliyyu l-ʿaẓīm).
a và a’ cùng một ý
b và b’ cùng một ý
c và c’ cùng một ý
d và d’ cùng một ý
e không có
Đoạn kinh trên được hát bằng tiếng Ả Rập trong đoạn youtube này nè mọi người!
Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018
Các chủ đề chính trong kinh Koran
Four main themes in the Koran:
(tiếng Việt bên dưới)
Theme 1: ALLAH – Allah is all
powerful, all knowing and all seeing
Theme 2: BELIEVERS – Allah is
good to believers in this life, then they go to paradise.
Theme 3: UNBELIEVERS –
Unbelievers are bad, guilty and dangerous to the believers. They and those who
disobey Allah are punished in this life and they go to hell/
Theme 4: JIHAD – It is the
duty of believers to spread Islam by Jihad (fighting/striving in Allah’s way)
(http://www.koran-at-a-glance.com/)
Người không theo đạo Hồi thì có
thể đọc thấy khó hiểu, cho nên thay từ Allah bằng từ Quy luật Nhân Quả nha mọi
người.
Bốn chủ đề chính được đề cập
trong kinh Koran là:
Chủ đề 1: Nhân Quả - Nhân Quả
điều hành cả vũ trụ, chạy trời không khỏi luật Nhân Quả, lưới trời lồng lộng,
tuy thưa mà khó thoát. Không gì ra khỏi quy luật vận hành của Nhân Quả.
Chủ đề 2: Những kẻ tin vào
Nhân quả. Vì tin nhân quả nên họ làm thiện tích đức, do vậy họ được vào các cõi
thiện lành.
Chủ đề 3: Những kẻ không tin
vào nhân quả. Vì không tin nhân quả nên họ không sợ gì cả và làm điều xấu ác.
Vì vậy sẽ bị quả báo ngay trong kiếp sống này và sẽ vào các cảnh giới xấu ác.
Chủ đề 4: Nghĩa vụ của người
tin vào Nhân Quả là lan truyền thông tin về Nhân Quả ra khắp nơi.
Thứ Tư, 10 tháng 1, 2018
Đức Phật cũng phải tôn thờ Thiên Chúa!
Thiên Chúa là tên gọi
chung của cả ba tôn giáo Do Thái, Kito và Hồi giáo. Thiên Chúa tùy tôn giáo và
vùng miền mà có tên khác nhau như Elohim, Jehovah, Allah, Jesus (con Thiên
Chúa),….
Và Thiên Chúa được định
nghĩa theo đạo Hồi là “duy nhất không bị sinh ra, duy nhất không có khởi đầu,
duy nhất vĩnh cửu, duy nhất thật, duy nhất bất tử, duy nhất thông minh, duy
nhất tốt, duy nhất toàn năng.” Thiên Chúa là vô hình tướng, không một ai có thể
thấy và thấu hiểu Thiên Chúa, ngoại trừ người có “con mắt tinh thần.” Tất cả
những bậc lãnh tụ tôn giáo hay người sáng lập tôn giáo đều là người có “con mắt
tinh thần” và họ cố truyền lại cho mọi người cái gọi là vô hình tướng của Thiên
Chúa. Đạo Phật không gọi là Thiên Chúa mà gọi là Pháp, kẻ nào thấy Pháp, kẻ đó
thấy Như Lai.
Cái vô hình tướng thì
nằm ngoài sự diễn đạt của ngôn từ cho nên người nào hiểu thì hiểu, còn không
thì thôi, dù có đọc bao nhiêu cuốn kinh đi chăng nữa mà không hiểu thì vẫn cứ
không hiểu. Do không hiểu nên phải diễn đạt và khi diễn đạt thì tạo ra nhiều
tông phái và chi phái khác nhau.
Người xưa rất thông
minh, họ đã phát hiện ra Thiên Chúa, nghĩa là Pháp, nghĩa là quy luật vận hành
của vũ trụ trời đất, và họ không biết diễn tả như thế nào nên họ gọi là Thiên
Chúa, và họ hình dung Thiên Chúa có những quyền năng này nọ hay Thiên Chúa làm
điều này điều nọ. Thật ra Thiên Chúa chính là quy luật vận hành của trời đất.
Vì đó là quy luật trời đất cho nên ngay cả Phật toàn giác cũng phải tuân thủ,
không thể đi ngược lại được.
Ví dụ, có người yêu cầu
Thích Ca chú nguyện cho người cha quá cố của mình được lên trời, thì Thích Ca
bảo người đó đem đến một túi dầu và một túi đá. Sau đó ra ao rồi thả đá và dầu
xuống nước. Theo luật của Thiên Chúa thì đá nặng nên chìm, và dầu nhẹ nên nổi.
Thích Ca nói: không ai có thể chú nguyện cho đá nổi và dầu chìm cả. Đá phải
chìm và dầu phải nổi, đó là quy luật tự nhiên, không ai, kể cả Phật toàn giác
có thể làm điều ngược lại. Cũng như người làm nhiều việc thiện thì vào thiên
đường, người làm nhiều việc ác thì vào địa ngục. Đó là luật tự nhiên, không ai
có thể làm trái lại được cả.
Hồi đó tôi có cô bạn
đạo Hindu, thờ phụng thần Krishna. Tôi có ở chung phòng với cổ. Hôm đó trời
nắng muốn chết, mới 7h sáng mà nắng đổ lửa. Cái cổ nói: Krishna ơi, hôm nay
Người làm cho trời nóng quá! Cái tự nhiên tôi nổi đóa vì nghĩ cô này mê tín dị
đoan thấy gớm luôn, tôi nói: Trời nắng là do trời nắng, chứ sao lại bảo rằng
Krishna làm cho trời nắng. Hên là cổ cũng hiền, hổng có quýnh tôi. Đối với
người tôn thờ thần Krishna thì thần Krishna tạo ra tất cả. Quan niệm này y như
quan niệm về Thiên Chúa của Do Thái, Kito và Hồi giáo. Và đó cũng là quan niệm
về Pháp của Phật giáo. Có cái gì mà không phải là Pháp. Ngay cả ông Thích ca
trước khi nhập Niết Bàn còn dặn mọi người rằng: Lấy Pháp làm thầy. Nghĩa là lấy
quy luật tuần hoàn của tự nhiên, lấy luật vận hành của vũ trụ trời đất, ra làm thầy.
Nhưng mà về sau nhiều
người đệ tử của ổng không thể hiểu được luật tuần hoàn của tự nhiên thì lấy gì
mà lấy làm thầy nên họ lấy giới làm thầy. Nói về giới cái ra thêm chuyện.
Giới luật trong đạo
Phật cũng như trong các đạo Hindu, Hồi, Kito, và Do Thái là phù hợp với điều
kiện sống, khí hậu thiên nhiên lúc ấy. Ví dụ, thời ấy, người theo đạo Hồi, đạo
Kito và Do thái sống bằng nghề du mục thì những giới luật rất nghiêm khắc ấy
cực kì phù hợp với dân du mục, với cuộc sống đổ lửa trên sa mạc hay trên vùng
đất khô cằn. Kể cả cách giết mổ để cúng tế bằng máu động vật này nọ,…. Tất cả
đều do lối sống thời ấy tạo ra nên giới luật rất phù hợp với lúc đó. Bây giờ
người ta không còn sống du mục nữa mà bắt người ta phải theo y chang thì mới có
chuyện xảy ra chớ. Cho nên do không hiểu nổi Thiên Chúa, nghĩa là quy luật tuần
hoàn của tự nhiên nên người ta phải bám chặt vào giới luật (mà thời nào thì
luật đó), vì vậy mà có tranh cãi, xung đột, và chiến tranh tôn giáo. Nếu ai
cũng lấy Pháp làm thầy, y như lời ông Thích Ca dặn trước lúc đi xa (hihi) thì
làm gì có chiến tranh. Mọi việc đều thuận theo Nhân Quả, hài hòa với tự nhiên
hết thì không có chống đối, kháng cự gì cả. Điều ấy có nghĩa là ai cũng đắc đạo
hết rồi, ai cũng thấy Thiên Chúa hết rồi thì mới vậy được. Nhưng vấn đề là tại
không thấy Thiên Chúa, không lấy Pháp làm thầy được nên mới xảy ra chuyện.
Túm lại thì các tôn
giáo được hình thành là do tập quán phong tục thời tiết khí hậu nghề nghiệp phù
hợp với khu vực ấy mà ra. Chứ Thiên Chúa, Pháp, hay Krishna,…. đều chỉ chung
một việc, đó là luật vận hành của vũ trụ trời đất. Theo luật tự nhiên (Thiên
Chúa/Pháp) thì hôm nay trời mưa nhưng mình không chịu theo tự nhiên, trong giới
luật ghi là phải nắng cho nên mình ép mình cho nắng. Vậy là mình làm trái luật
trời (Thiên Chúa/Pháp), ngược tự nhiên rồi nhưng mình lại tự hào là mình là
người giữ giới luật. Thế mới lạ chớ.
Cho nên giờ ai bảo theo
tôn giáo nào thì tôi cũng theo hết, bởi vì Thiên Chúa (luật tuần hoàn của vũ
trụ) thì cũng chỉ có một thôi, cho nên theo tôn giáo nào cũng là theo quy luật
tuần hoàn ấy, có gì đâu mà khác biệt.
Túm lại thì ai theo quy luật tuần hoàn của vũ
trụ thì đó là người của mọi tôn giáo. Cứ nơi nào có tôn giáo nào thì theo, qua
nơi khác thì theo tôn giáo khác. Vậy là quá đơn giản, khỏi chống cự, khỏi làm
cảm tử quân tử vì đạo, khỏi bảo vệ, tôn thờ bất cứ điều gì. Quy luật tuần hoàn
của vũ trụ thì đâu cần ai bảo vệ đâu mà đòi bảo vệ. Dù mình biết hay không
biết, thấy hay không thấy, tin hay không tin,…. thì quy luật tuần hoàn của vũ
trụ vẫn cứ vậy mà xoay vần thôi hà, đâu có liên quan đến cái biết/không biết,
thấy/không thấy, tin/không tin của ai đâu. Y như Thích Ca nói: Dù Như Lai có ra
đời hay không thì Chân Lý (Luật Tuần hoàn của vũ trụ) vẫn vậy.
Không ai thay đổi được,
không ai bảo vệ được và cũng không ai phá hủy được Chân Lý.
Cho nên ai muốn bảo vệ
gì thì cứ việc mà bảo vệ (!!!!), còn ta thì ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, ở
trong cộng đồng tôn giáo nào thì ta theo tôn giáo ấy.
P.s Người nào bám chặt vào
tôn giáo của mình mà không theo sự sắp xếp của luật vận hành của vũ trụ, thì
người đó là đi ngược lại ý Chúa rồi đó.
Ý nghĩa câu nói trong
hình là: Tất cả đều vô thường (thay đổi), chỉ có duy nhất sự vô thường là thường trụ (không thay đổi).
(Cái gì thường trụ (không thay đổi), cái ấy chính là Thiên Chúa, không bao
giờ thay đổi, không có khởi đầu cũng không có kết thúc, bất tử và toàn năng, không
có hình tướng, cũng không diễn đạt được bằng lời, người ta chỉ có thể thấy Thiên
Chúa qua các dấu hiệu mà thôi.)
Bài liên quan: Thế nào là ngoại đạo, thế nào là nội đạo?
Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018
Sự nhầm lẫn của người Việt Nam trong tên gọi Thiên Chúa giáo
Người Việt Nam thường lầm
lẫn gọi Công Giáo La Mã là Thiên Chúa Giáo hoặc Đạo Thiên Chúa. Thực ra Thiên
Chúa Giáo bao gồm các đạo Do Thái, Ki Tô và đạo Hồi. Cả 3 đạo đều nói về thiên
đàng, địa ngục, tổ tông loài người là Adam Eva, thiên thần truyền tin Gabriel
và đều nhận Abraham làm tổ phụ của tôn giáo mình.
Cho nên đạo Thiên Chúa Giáo mà
người Việt Nam
hay gọi thật ra nên gọi là Kito giáo.
Ngoài ra, Đạo Do Thái, đạo Ki
Tô và đạo Hồi đều cùng thờ chung một Chúa, nhưng mỗi đạo đều có Thánh Kinh
riêng và đạo nào cũng tự cho Thánh Kinh của mình mới là chân lý tuyệt đối. Cả 3 đạo đều tự cho
Thánh Kinh của mình là những "sách Mặc Khải":
- Do Thái: Kinh Torah (Cựu Ước) được Thiên Chúa mặc khải
cho Thánh Mai-sen (Moses) khoảng năm 1250 TCN trên núi Sinai.
- Kito: Các sách Tân Ước/Phúc Âm là các sách Thiên
Chúa mặc khải cho Thánh Phao Lô và bốn vị Thánh Sử: Matthew, Mark, Luke và John
trong thế kỷ 1.
- Hồi giáo: Kinh Koran là sách Thiên Chúa mặc khải cho
tiên tri Muhammad qua trung gian của thiên thần Gabriel trong 22 năm liên tục
(610-632). Chữ Koran phiên âm từ tiếng Ả Rập
"Quran" có nghĩa là sự thuật lại (Recitation).Đá thiêng Kaaba tại thánh địa Mecca.
Nơi
linh thiêng nhất của đạo Hồi là thánh địa Mecca ở Saudi Arabia, tại đây một
tảng đá đen khổng lồ hình khối được gọi là Ká-Ba, tượng trưng cho Thiên Chúa,
được cả thế giới Hồi Giáo ngưỡng mộ. Tảng đá đen Ká-ba được phủ lụa đen. Các
người Hồi Giáo từ khắp nơi kéo đến hành hương, ít nhất một lần trong đời, chỉ
cốt được chạm tay vào tảng đá này! Những người đàn ông mặc áo dài trắng hoặc
đen, đàn bà phủ khăn trùm đầu, tất cả tạo thành những vòng tròn chung quanh
tảng đá theo các vạch kẻ sẵn để cầu nguyện. Đoàn hành hương đi vòng quanh tảng
đá 7 lần, tượng trưng cho 7 tầng của Thiên đàng. Đến hết vòng 7, họ ôm lấy tảng
đá và hôn. Đó là ước vọng cao quí và thiêng liêng nhất trong đời của mọi người
Hồi Giáo trên khắp thế giới.
Ảnh: Internet.
Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2018
Các thiên sứ/sứ giả trong đạo Hồi
Theo giáo lý của đạo
Hồi thì từ tạo thiên lập địa đến nay, Thiên Chúa đã gửi xuống thế gian 25 sứ
giả của Ngài để dạy dỗ loài người. Vị sứ giả đầu tiên chính là Adam, tổ tiên
của loài người và vị sứ giả cuối cùng chính là Muhammad. Sau Muhammad không còn
bất cứ một sứ giả nào khác. Tất cả các người kế vị Muhammad được gọi là Caliph
(khalif) đều chỉ là kế vị với tư cách lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo mà thôi
(leader of Islamic community) chứ không ai có tư cách kế vị thiên sứ cả (no
successor to Messsenger of God). Muhammad là thiên sứ bất khả kế nhiệm và là
thiên sứ lớn hơn tất cả mọi thiên sứ khác. Đối với các tín đồ Hồi Giáo, thiên
sứ Muhammad chỉ là một người thường như mọi người nhưng không có ai vượt qua
Ngài về sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong số 25 vị thiên sứ
(gồm có 18 vị thuộc đạo Do Thái, 3 vị thuộc đạo Ki Tô và 4 vị Ả Rập) chỉ có 6
vị được đạo Hồi coi là những vị Thiên sứ quan trọng nhất. Đó là:
1.
Thiên Sứ Muhammad
2. Thiên sứ Jesus
Christ
3. Thiên sứ Moses
(Maisen)
4. Tổ phụ Abraham
5. Thiên sứ Noah (ông
No-e)
6. Thiên sứ Adam (ông
A-dong)
Đối với đạo Hồi, chỉ có
Moses và Jesus là người Do Thái, còn các vị khác như Adam, Noah và Abraham
không thuộc chủng tộc nào cả. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh: Đạo Hồi không coi
Moses là người lập đạo Do Thái hay Jesus là người lập đạo Ki Tô. Đạo Hồi coi tất
cả các vị Thiên sứ đều là những tín đồ đạo Hồi.
Sách: Thực Chất Đạo Công Giáo
và Các Đạo Thờ Chúa
Tác giả: Charlie Nguyễn
Ảnh: Internet
Điều thú vị về Taj Mahal.
Taj Mahal nổi tiếng
khắp thế giới vì là chứng tích cho sự vĩ đại của tình yêu mà vị vua Hồi giáo Shah
Jahan dành cho người vợ quá cố. Ngày nay Taj Mahal
trở thành nơi chứng nhận tình yêu của vô số cặp đôi đến từ khắp nơi trên thế
giới. Các đôi lứa yêu nhau luôn mơ ước được cùng người mình yêu đến Taj Mahal
ít nhất một lần trong đời.
Vua Shah Jahan thuộc
vương triều Mughul. Mughul là tiếng Ba tư cho từ Mongol, nghĩa là Mông Cổ. Quân đội
Mông Cổ từng chinh chiến đến đây và họ cải sang đạo Hồi. Và vì yêu thích đạo
Hồi mà đi đến đâu thì họ truyền bá đạo Hồi đến đó.
Có thể nói quân đội Mông Cổ có công rất lớn trong việc truyền
bá đạo Hồi ra khắp thế giới.
Truyền thuyết về Tổ phụ Abraham trong đạo Hồi
Truyền thuyết về
Abraham trong đạo Hồi được thuật lại một cách sơ lược qua 25 câu thơ rải rác
trong các chương khác nhau của kinh Koran:
- Adam là tổ tiên của
loài người và là vị tiên tri thứ nhất của Thiên chúa (Koran 3:33)
- Trận Đại hồng thủy
tiêu diệt cả loài người, chỉ ngoại trừ những người và vật trên tàu của ông Noah
được cứu thoát mà thôi. Noah là tiên tri thứ hai của Chúa (Koran 7:59-64)
- Sau đó loài người
sinh sôi nảy nở và thờ nhiều thần nhảm nhí nên Chúa cho tiên tri thứ ba xuất
hiện, đó chính Abraham. Với sứ mạng lập đạo thờ một Chúa tức Độc thần giáo
(Monotheism), Abraham chống lại cha ruột của minh là Azar (tức Terah) vì ông
này làm ra rất nhiều tượng thần để tôn thờ. Abraham chất vấn cha : “Cha sẽ thờ
những ảnh tượng này thay vì thờ Chúa sao? Hiển nhiên là cha và những người theo
cha là những kẻ sai lầm!” ( Koran 6:74-84 ).
Đạo Do thái và đạo Hồi
đều tự nhận là đạo chân chính của Abraham vì không thờ ảnh tượng. Hai đạo này
kết án đạo Công giáo và Chính thống giáo là những tà đạo vì hai giáo phái Ki-tô
này đều thờ rất nhiều ảnh tượng của Chúa và các thánh!
Truyền thuyết kể rằng:
Abraham sinh ra trong một cái hang đá ở phía nam của thành phố Urfa . Khi mới sinh ra được một ngày, Abraham
đã lớn bằng đứa trẻ đầy tháng và sau một năm, Abraham lớn bằng đứa trẻ 12 tuổi.
Khi trưởng thành, Abraham đập nát các ảnh tượng của các thần và khuyên mọi
người chỉ thờ một Thiên chúa mà thôi. Vua Nimrod ra lệnh nắt Abraham và xử tử
bằng cách thiêu sống. Nhưng khi ngọn lửa mới bùng lên thì tự nhiên có một vòi
nước đổ nước xuống dập tắt ngọn lửa và những thanh củi đang cháy biến thành
những con cá, nhờ thế mà Abraham được cứu sống.
Hiện nay, mỗi tuần có
nhiều chuyến xe bus chở khách hành hương từ Iran qua viếng hang đá mà họ tin là
nơi sinh của Abraham. Trước khi vào hang đá họ phải đi qua một ngôi đền Hồi
giáo có một ngọn tháp nhỏ. Họ ở đây ít phút cầu nguyện Thượng đế trước khi vào
viếng thăm hang đá, nơi sinh ra của Abraham, vị thánh tổ vĩ đại của tất cà các
đạo thờ Chúa ! Đối với dân chúng ở khắp vùng này thì sinh quán của Abraham là Urfa chứ không phải Ur
như sách Sáng thế ký của đạo Do thái đã nói. Dù cho Abraham sinh ra tại Ur hay Urfa cũng không quan
trọng, điều quan trọng là sách Sáng thế ký (cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh
thánh Do thái) đã mô tả chi tiết về Haran :
Tại Haran, Chúa nói với Abraham hãy tiếp tục lên đường đi đến Đất hứa. Lúc đó
Abraham đã 75 tuổi, vợ là Sarah đã 65 tuổi. Abraham lên đường cùng với vợ và
người cháu trai tên là Lot . Họ mang theo nhiều
tài sản gồm súc vật và đồ đạc. Từ Haran đến đất hứa Canaan, Abraham phải đi qua
nước Syria .
Đất hứa Canaan chính là dải đất của xứ Ai cập.
Sáng thế ký mô tả vùng Đất hứa Canaan “chảy ra
sữa và mật” (flowing with milk and honey) ngụ ý miền đất này rất phì nhiêu.
Trong thực tế vùng đất Canaan khô cằn sỏi đá nên từ hai ngàn năm trước Công
nguyên, đa số cư dân ở Canaan phải sinh sống
bằng nghề buôn bán. Vì thế, từ thuở đó chữ “Canaanites” đã có nghĩa là thương
gia (merchants).
Sách Sáng thế ký kể
tiếp: Abraham đến vùng Đất hứa, trước hết cư ngụ tại thành phố Sechem. Tại đây
Chúa hiện ra với Abraham và phán rằng: “Ta sẽ cho dòng dõi của con vùng đất
này” (To your seed I will give this land).
Sechem là tên của một
thành phố cổ tại Trung đông đã có từ 2000 năm TCN, tọa lac ở phía tây sông Jordan . Nay
thành phố mang tên Nablus , có 130.000 dân và đặt
dưới quyền kiểm soát của chính quyền Palestine .
Hiện tại thành phố này đang là một bãi chiến trường giữa Palestine và Do thái. Cũng như hàng ngàn năm
về trước, nơi đây đã từng là chiến trường giữa hai dân tộc con cháu của Abraham:
Do thái và Ả rập !
Sách Sáng thế ký không
nói Abraham ở tại thành phố Sechem bao lâu, chỉ nói Abraham đi về phía nam đến
sa mạc Negrev. Ngày nay, vùng Negrev đã được dẫn thủy nhập điền nên nghề nông
phát triển. Vào thời Abraham, mỗi khi gặp mùa hạn hán vùng này thường bị lâm
vào nạn đói trầm trọng. Chính vì vậy Abraham đã phải bỏ Đất hứa Canaan để đi Ai cập. Nhờ có sông Nil và vùng đồng bằng
phì nhiêu màu mỡ nên dân Ai cập có một cuộc sống no đủ thịnh vượng. Mục đích
của Abraham đến Ai cập kiếm ăn để khỏi bị chết đói. Khi mới tới biên giới Ai cập,
Abraham căn dặn Sarah (lúc đó 65 tuổi): “Em là một người đàn bà đẹp, nếu em nói
là vợ ta thì người Ai cập sẽ giết ta. Vậy em hãy nói là em gái của ta”. Quả
nhiên, các cận thần của vua Pharaon thấy Sarah quá đẹp nên đã dẫn nàng “dinh”
(“harem”) của nhà vua.
Sự việc vua Pharaon
cướp vợ của Abraham làm cho Thiên chúa rất tức giận nên ngài đã gây ra nạn dịch
tàn phá Ai cập. Vua Pharaon thấy vậy sợ quá nên gọi Abraham đến để quở trách:
“Tại sao ngươi không nói thật với ta Sarah là vợ ngươi? Vì ngươi nói nàng là em
gái nên ta mới lấy nàng làm vợ. Thôi, bây giờ ngươi hãy nhận lại nàng và cút
khỏi đây.” Sau đó, Abraham trở lại Canaan và
chính thức định cư tại đây.
Tại Canaan, Chúa lại
hiện ra với Abraham và xác định lãnh thổ Đất hứa: “Ta sẽ cho dòng dõi của con
lãnh thổ từ sông Nil của Ai cập đến sông Euphrates” (nay thuộc Iraq ). Nhưng
Abraham lo lắng nghĩ về tương lai vì hiện tại Abraham không có một đứa con nào
cả. Abraham oán trách Chúa: “Chúa cho tôi những thứ đó để làm gì vì tôi già sắp
chết rồi mà vẫn không có con?” (Oh my Lord, what can you give me when I am
going to my end childless?). Chúa trả lời: “Con hãy nhìn lên bầu trời và đếm
các vì sao. Dòng dõi của con sau này cũng sẽ đông như vậy”.
Lúc đó, Sarah tin rằng
mình không thể nào sinh con được vì đã 75 tuổi nên thuyết phục chồng ăn nằm với
cô đầy tớ gái Ai cập tên Hagar. Ít lâu sau, Hagar sinh cho Abraham đứa con trai
đầu lòng, đặt tên là Ismael. Khi có đứa con đầu lòng thì Abraham tròn 86 tuổi !
Mười ba năm sau, tức
vào lúc Abraham 99 tuổi, Chúa hứa với Abraham rằng ông ta sẽ là tổ phụ của
nhiều quốc gia (father to a multitude of nations). Abraham và Sarah đều phá lên
cười và hỏi lại Chúa “Có lẽ nào một ông già trên 100 tuổi và một bà già 90 tuổi
sinh con?” Đúng một năm sau, Sarah sinh ra một bé trai được hai vợ chồng đặt
tên là Isaac, có nghĩa là tiếng cười (theo tiếng Hebrew). Sau khi có con, Sarah
ghen với Hagar và Ismael nên thuyết phục Abraham đuổi họ ra khỏi nhà. Abraham
đưa Hagar và Ismael đến một nơi trong sa mạc. Những người Hồi giáo tin rằng nơi
đó chính là Mecca
hiện nay.
Sách Sáng thế ký kể
tiếp: Sarah chết năm 127 tuổi tại Quiryat gần Hebron ,
Abraham đem xác vợ về chôn tại hang Machpelah, thuộc tỉnh Hebron
ở gần Biển Chết (the Dead Sea ).
Sau đó, Abraham đến Haran kiếm vợ cho Isaac
tên Rebekah. Cưới vợ cho con trai xong, Abraham đi Hebron để kiếm một cô vợ cho
riêng ông, lúc này ông đã 137 tuổi. Cô vợ trẻ của Abraham tên Keturah sinh cho
ông 6 đứa con. Sách Sáng thế ký cho biết Abraham chết vào năm 175 tuổi. Isaac
va Ismael đem xác cha về chôn bên cạnh mộ của bà Sarah tai hang Machpelah. Ngày
nay hang này là thánh địa của đạo Do thái và đạo Hồi.
Truyền thuyết của Hồi
giáo về Abraham trong phần đầu cũng tương tự như trong sách Sáng thế ký của đạo
Do thái. Nhưng từ khi bà Sarah nổi ghen và buộc Abraham phải đuổi hai mẹ con
Ismael ra khỏi nhà thì câu chuyện bắt đầu đổi khác : Bà Hagar dẫn con đến một
nơi ở sa mạc Syro-Arabia, nơi đó chính là địa điểm của thành phố Mecca, thủ đô
của xứ Saudi Arabia ngày nay.
Năm Ismael lên 13 tuổi,
Abraham cắt da qui đầu của con trai và sau đó ông tự cắt da qui đầu của mình,
mặc dầu lúc đó ông đã 99 tuổi. Đây là hành vi tỏ ý tuân phục Thiên chúa tuyệt
đối. Tục lệ cắt bì (circumcision) bắt đầu từ đó và dần dần biến thành một nghi
lễ (tương tự như lễ rủa tội của Ki-tô giao) áp dụng cho mọi tín đồ nam giới của
đạo Do thái và đạo Hồi.
Khi Isamel trưởng
thành, Chúa thử lòng Abraham bằng cách ra lệnh cho ông phải giết đứa con trai
yêu quí của mình và đốt nó bằng củi lửa như những vật hy sinh khác (Koran
37:102-112) . Abraham tuân lệnh Chúa nên dẫn Ismael lên núi Arafat (cách Mecca 16 dặm) để giết.
Nhưng khi Abraham vừa mới vung đao lên để giết con thì Thiên chúa ngăn lại.
Chúa hứa cho Ismael sau này trỏ thành tổ phụ của một dân tộc lớn. Về sau,
Ismael có 12 người con trai là tổ tiên của 12 giống dân Ả rập. (Điều này cũng
tương tự như Kinh thánh Cựu ước Do thái chép rằng: cháu nội của Abraham là Jacob
có 12 con trai là tổ phụ của 12 bộ lạc Do thái. Kinh thánh Tân ước cũng chép :
Chúa Jesus chọn 12 tông đồ để lãnh đạo 12 bộ lạc Do thái chứ không phải để
truyền đạo khắp thế gian.)
Trong thời gian bà
Hagar và Ismael sống tại sa mạc, Abraham thường xuyên đến thăm. Giữa chốn sa
mạc hoang vu này Chúa đã khiến cho một dòng nước từ dưới những lớp cát phun
lên. Đó chính là giếng nước thiêng ở Mecca
gọi là giếng Zamzam. Cả hai cha con Abraham đã cùng nhau xây một đền thờ Chúa
đầu tiên trên trái đất. Đó chính là đền thờ Kaaba ở Mecca hiện nay. Tiếng Ả rập Kaaba có nghĩa là
Tòa nhà hình khối (the Cubic
Building ). Ismael thọ 137
tuổi.
Ngày nay, mỗi năm có
tới hàng chục triệu người Hồi giáo từ khắp nơi trên thế giới đổ về Mecca hành hương. Địa
điểm chính yếu là đền thờ Kaaba. Trước khi tới đền thờ này, người ta phải đi bộ
qua các đại lộ Abraham, Hagar, Ismael và Muhammad. Sau đó, các khách hành hương
đi thăm giếng nước Zamzam đã nuôi sống hai mẹ con Ismael ở sa mạc. Cuối cùng họ
kéo nhau lên núi Arafat, cách Mecca
16 dặm, giết những con cừu làm lễ tế sinh (animal sacrifice offering) để tưởng
niệm Abraham toan giết Ismael làm lễ hy sinh tế lễ Thiên chúa!
Sách: Thực Chất Đạo Công Giáo
và Các Đạo Thờ Chúa
Tác giả: Charlie Nguyễn
Ảnh: Internet
Thứ Bảy, 6 tháng 1, 2018
Vì sao người Hồi giáo rất ham chuộng kiến thức và nghiên cứu?
Vì điều đó đã được quy định
trong kinh Koran.
Về phương diện văn minh và
văn hóa, toàn vùng Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển từ thế kỷ 8
đến thế kỷ 13. Lịch sử thế giới đã gọi những thế kỷ này là Thời đại Hoàng kim
(The Golden Age) của những người Hồi giáo Trung Đông. Vào thời đó, những người
Ả-rập rất ham chuộng nền văn hóa Hy Lạp và chú trọng đến việc nghiên cứu toán
học, thiên văn và khoa học thực nghiệm. Họ đã thực hành lời dạy của Muhammad
trong kinh Koran: “Ai bỏ nhà đi tìm sự hiểu biết là đi đúng con đường của Chúa. Lạy Chúa!
Xin Ngài hãy ban thêm sự hiểu biết cho con”.
Đầu thế kỷ 8, Baghdad (thủ đô Iraq ) xây dựng trường Đại học đầu
tiên trên thế giới. Họ gọi là “căn nhà của sự khôn ngoan” (House of wisdom). Baghdad trở thành một
trung tâm văn hoá lớn nhất thế giới.
Năm 800, các tác phẩm
của Aristote và Plato đều được dịch sang tiếng Arabic và được phổ biến trong
toàn vùng Trung Đông.
Đến giữa thế kỷ 9, các
sách y khoa của Hy Lạp được dịch sang tiếng Arabic. Cuối thế kỷ 9 rất nhiều
sách dịch về khoa thiên văn và địa lý được phổ biến tại Trung Đông.
Do các kiến thức học
hỏi được từ Hy Lạp, người Ả-rập Hồi giáo đã phát minh ra máy Astrolable dùng để
đo độ cao của các thiên thể. Họ biến chế máy Astrolable thành một thứ địa bàn
để các tín đồ Hồi giáo dù ở bất cứ một nơi nào trên thế giới cũng tìm được
hướng Mecca để
quay mặt về thánh địa khi cầu nguyện. Tại thánh địa Mecca có đền thờ Ka’aba, tiếng Ả-rập có nghĩa
là “Nhà của Chúa” (House of God). Người Ả-rập tin rằng ngôi nhà của Chúa đã
được xây dựng lần đầu tiên bởi tổ phụ Abraham.
Năm 1166, nhà địa dư
học Ả-rập Al Adrisi là người đầu tiên trên thế giới vẽ bản đồ trái đất hình cầu
rất chính xác. Cũng trong khoảng thời gian này, người Ai-cập chế ra đồng hồ quả
lắc để coi giờ.
Trường đại học lâu đời
nhất và hoạt động liên tục trên 10 thế kỷ là đại học Al-Azhar ở thủ đô Cairo của Ai-cập (thành
lập năm 970).
Một ngôi sao sáng ngời
trong thế giới toán học là nhà toán học Hồi giáo Ba Tư Muhammad Ibu Musa. Ông
đã phát minh ra một môn toán học nhằm mục đích “Phục hồi những phần đã bị tách
rời” (to restore the broken parts), tiếng Ả-rập gọi là Al-Jabr. Danh từ này
được người Hy Lạp phiên âm thành Algebra tức là môn Đại-số-học. Môn toán học
này được Musa phát minh năm 850.
Đều thế kỷ 11, một ngôi
sao lớn về quang học xuất hiện tại Ai-cập. Đó là nhà khoa học Hồi giáo Alhazen.
Ông chuyên tâm nghiên cứu các sách Hy Lạp về khúc xạ và phản chiếu ánh sáng.
Ông là người đầu tiên trên thế giới giải thích hiện tượng cầu vồng và quang
phổ. Thế giới khoa học ngày nay tôn vinh ông là ông tổ sáng lập ngành quang học
hiện đại.
Nhờ có những sách y
khoa dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Arabic trong hai thế kỷ 8 và 9, đến thế kỷ
10 người Hồi giáo Ả-rập đã phát minh và đóng góp cho nhân loại rất nhiều tiến
bộ về y khoa trên nhiều lãnh vực :
1. Sử dụng Anesthasia
trong giải phẩu.
2. Sát trùng vết thương.
3. Phát giác việc lây
bệnh do sự tiếp cận với người có bệnh và qua đường hô hấp.
4. Tách rời dược khoa
và y khoa thành hai ngành riêng.
5. Do sa mạc thường có
bão cát gây đau mắt nên người Ả-rập lập ra ngành nhãn khoa riêng.
6. Năm 925, nhà khoa
học Abu Razi cho in bộ sách “Bách khoa Tự điển Y khoa” đầu tiên trên thế giới.
Mãi tới hơn 5 thế kỷ sau, tức vào năm 1486, bộ sách này mới được dịch sang
tiếng La-tinh để phổ biến tại Âu châu.
Về văn chương, bộ
chuyện vĩ đại được in thành nhiều chục tập (volumes) nổi tiếng khắp thế giới và
đã được dịch ra đủ loại thứ ngôn ngữ, đó là chuyện “Ngàn lẻ Một đêm”. Đây là
tổng hợp đủ các chuyện thần thoại thời Babylon
cổ xưa, các chuyện dân gian Ả-rập (Arab legends) và pha trộn với những chuyện
thần tiên của Ấn Độ (Indian fairy tales).
Về kiến trúc, người
Ả-rập Hồi giáo là những người phát minh ra cách xây những chiếc vòm nhọn đầu
(pointed arch) từ thế kỷ 8 để kiến tạo những chiếc cầu bắc qua sông. Người Âu
châu sau này bắt chước để lập ra lối kiến trúc Gothic.
Thái độ ham chuộng học
hỏi và tôn trọng khoa học của người Hồi giáo rất đáng được mọi người khâm phục.
Người có công sưu tầm
và duy trì những cuốn sách quí giá của nền văn minh Hy Lạp để lưu lại cho thế
giới chúng ta ngày nay chính là một ông vua Hồi giáo Ả-rập : Caliph Al-Mamun.
Ông lên ngôi tại Baghdad
năm 813. Việc đầu tiên là thành lập “Nhà của sự khôn ngoan” (House of wisdom).
Ông cho người đi khắp nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy Lạp mang về Baghdad rồi
thuê người Hy Lạp biết tiếng Ả-rập dịch tất cả các sách đó. Trong suốt 20 năm
cai trị, vua Al-Mamun đã dồn hết tâm huyết vào công trình văn hóa độc đáo này.
Các nhà trí thức Hồi
giáo ở Trung Đông thời đó nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của nhà vua và họ đã
tiếp tay để biến các thủ đô Hồi giáo thành những trung tâm văn hóa nổi tiếng
như: Alexandria (Ai-cập), Antioch Edessa (Thổ-nhĩ-kỳ), Condova (Tây-ban-nha,
lúc này là thuộc địa của đế quốc Hồi giáo).
Phong trào ham chuộng kiến thức khoa học của toàn vùng Trung Đông Hồi giáo kéo dài trong 5 thế kỷ, từ
thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, đã biến vùng Trung Đông thành một khu vực văn minh nhất
thế giới.
Blue Mosque in Istanbul. Internet |
Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2018
Hồi Giáo vs. Ki Tô Giáo vs. Do Thái Giáo
Mặc dầu kinh Koran là
kinh thánh của đạo Hồi công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau
Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jesus. Koran gọi các
phép lạ của Jesus là những trò học mót ở Babylon .
Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông, hoàn toàn phủ nhận cái chết của
Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do thái không giết và không đóng
đinh Jesus
Tiên tri Muhammad phản
đối Công giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều răn thứ hai của Moses.
Một điều nữa mà Muhammad phản đối là thuyết Thiên Chúa ba ngôi của đạo Ki-tô.
Đối với Muhammad, Ki-tô là đạo Đa thần giáo, đi ngược lại chủ thuyết độc thần
của tổ phụ Abraham. Hồi giáo và Do thái giáo là hai đạo độc thần đúng nghĩa vì
chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Công giáo La-mã thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên
Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... Do đó Công giáo là
một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.
Muhammad cũng ghét đạo
Do thái vì Do thái gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều của El), đạo
Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả-rập là Il. Đi liền với
Il có chữ “ah” là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả-rập. Vì thế Il thành
Il-ah. Khi chuyển sang Anh ngữ, các chữ I thành A, vì thế Il-ah thành ALLAH
(cũng như Ibrahim trong tiếng Ả-rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh).
Muhammad gọi chung
những người theo đạo Do thái và Ki-tô giáo là “những tín đồ của các sách Thánh
kinh” hoặc gọi chung là “những kẻ không tin Thiên Chúa Allah.” Riêng với các tín
đồ Công giáo, Muhammad gọi là “những kẻ thờ thần tượng” (The idolers).
Charlie Nguyễn)
Ảnh: Muhammad |
Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018
Độ chính xác của Kinh Koran
Kinh Koran là sách Thiên Chúa mặc khải cho tiên
tri Muhammad qua trung gian của thiên thần Gabriel trong 22 năm liên tục
(610-632).
Phần lớn kinh Koran (85 chương) được Muhammad
viết tại Mecca , còn lại 29 chương viết tại Medina . Muhammad viết
Koran trên lá cọ khô và trên những tấm da súc vật phơi khô.
25 năm sau khi Muhammad qua đời thì vị vua kế nhiệm thời bấy giờ là Uthman sai người đi khắp nơi để truy lục và thu thập
lại các bản viết tay của Muhammad. Sau đó ghi chép lại tất cả và cho ra một
quyển kinh được gọi là "MUSHAF" có nghĩa là "Kinh Thánh chính
thức của mọi người Hồi Giáo" Sau đó vua Uthman ra lệnh đốt tất cả các bản viết tay
gốc của Muhammad. Đây là thiệt thòi cực lớn cho Hồi giáo.
Sau này người ta thu lượm 5 bản thảo viết tay gốc vẫn chưa bị
đốt và so sánh với MUSHAF thì thấy có sự khác biệt.
Vấn đề được đặt ra là:
1. MUSHAF có sự khác biệt
so với bản thảo gốc
2. Những người chép lại từ
bản thảo gốc chưa chắc đã chép y nguyên và có thể thêm thắt, sửa đổi.
3. MUSHAF rất khó đọc nên
phải người giảng giải/luận, gọi là HADITH. Tùy người mà cách luận khác nhau. Từ
đó hình thành các giáo phái Hồi giáo khác nhau. Giáo phái này kết án giáo phái
kia là xuyên tạc hoặc giả mạo Thánh Kinh Koran và gọi nhau là những kẻ tà đạo
(mukhtalaq)! Kết quả là những cuộc thánh chiến đẫm máu giữa các giáo phái này
trong nhiều thế kỷ qua.
Túm lại kinh Koran của
Hồi giáo cũng như kinh thánh của Thiên Chúa giáo, kinh điển của Phật giáo đều
gặp phải vấn đề tam sao thất bổn. Do vậy mà có sự tranh cãi tranh luận liên
miên không ngừng nghỉ giữa các tín đồ trong cùng một tôn giáo từ năm này qua
năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác.
(Tài liệu tham khảo:
Sách Hồi giáo Xưa và Nay của Charlie Nguyen.)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)